1. Bối cảnh ra đời và đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Sự phát triển của nhân loại trong hơn ba thế kỷ qua chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những thay đổi từ các cuộc cách mạng công nghiệp.
Một là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ 18 bởi các thành tựu về cơ khí hóa với sự ra đời của máy hơi nước.
Hai là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với việc phát minh ra động cơ điện và dây chuyền lắp ráp để tạo ra sản xuất quy mô lớn.
Hình 1. Các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới
Ba là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ 20 với đặc trưng là việc sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.
Bốn là, từ đầu thế kỷ 21, thế giới bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Công nghệ Ha-nô-vờ ở Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Năm 2012, thuật ngữ này được đặt tên cho một chương trình hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Đức hợp tác với giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua “điện toán hóa”. Từ đó đến nay, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới để mô tả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 20/01/2016, Diễn đàn kinh tế thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sĩ, đã khai mạc với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời trong bối cảnh:
Một là, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 – 2009 đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh, thậm chí thay đổi căn bản mô hình phát triển theo hướng cân bằng hơn, hiệu quả và bền vững hơn. Các nguy cơ về an ninh năng lượng, an ninh môi trường đòi hỏi các nước đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu đổi mới, sáng tạo, tìm ra các giải pháp công nghệ, tối ưu hóa quá trình sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm năng lượng.
Hai là, trước sự cạnh tranh gay gắt của các nền kinh tế mới nổi nhờ lợi thế chi phí lao động thấp, các nước công nghiệp phát triển đứng trước sức ép rất lớn phải tái cơ cấu kinh tế để tiếp tục duy trì vị thế dẫn dắt nền kinh tế thế giới, nhất là trong các ngành công nghệ cao.
Ba là, do xu hướng già hóa dân số, lực lượng lao động giảm không những làm giảm tốc độ tăng trưởng mà còn làm giảm năng lực canh tranh của các nước công nghiệp phát triển và một số nền kinh tế mới nổi, đòi hỏi các nước này đầu tư nhiều hơn vào phát triển khoa học-công nghệ nhằm bù đắp thiếu hụt lao động.
Bốn là, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ trên lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, Internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, vật liệu mới, lưu trữ năng lượng… vừa là động lực, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những đặc trưng sau:
Một là, nhờ khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trên nhiều lĩnh vực.
Hai là, tốc độ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là không có tiền lệ trong lịch sử. Nếu các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ tuyến tính, thì tốc độ phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là theo hàm số mũ.
Ba là, cuộc cách mạng lần này làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên “cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất – giá trị. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi mạnh mẽ của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người.
2. Những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ: Toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Các tác động này mang tính tích cực trong dài hạn song cũng tạo ra nhiều thách thức trong ngắn hạn và trung hạn.
Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức – “thông minh”. Các thành tựu mới của khoa học-công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị…
Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông chi phí thấp ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất đang chuyển dịch dần từ các nước có nhiều lao động phổ thông và tài nguyên sang những nước có nhiều trung tâm nghiên cứu, phát triển, nhiều lao động có kỹ năng, chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo – là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông – là những yếu tố đầu vào luôn có giới hạn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ tác động tích cực đến tiêu dùng và giá cả. Theo đó, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với những sản phẩm và dịch vụ mới với chí phí thấp hơn, như: gọi xe taxi, đặt vé máy bay, mua bán sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim qua mạng. Những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng, vật liệu, Internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, in 3D giúp giảm mạnh áp lực chi phí, qua đó làm giảm giá cả hàng hóa và dịch vụ. Tất cả sẽ giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Về mặt môi trường, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động tích cực trong ngắn hạn và hết sức tích cực trong trung hạn và dài hạn nhờ các ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu thân thiện với môi trường và các công nghệ giám sát môi trường đang phát triển nhanh được hỗ trợ bởi Internet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên tục theo thời gian thực cũng như đưa ra cảnh báo sớm về các thảm họa thiên nhiên.
Về mặt xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở nhiều nước với sự xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, văn hóa, nghệ thuật, giải trí, truyền thông, giáo dục, đào tạo, y tế, pháp luật… Về việc làm, trong trung hạn và dài hạn, các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp sẽ bị tác động trực tiếp và nhiều nhất do nhu cầu sử dụng lao động tay nghề cao tăng trong khi nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng thấp ngày càng giảm. Nhóm lao động chịu tác động mạnh nhất là lao động phổ thông do rất dễ bị thay thế bởi quá trình tự động hóa và người máy. Chênh lệch giàu nghèo có khả năng tiếp tục gia tăng.
Hình 2. Khoảng 47% chỗ làm việc ở Mỹ có thể bị đe dọa bởi tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc cách mạng công nghiệp lần này cùng với những thay đổi nhanh chóng và rộng khắp đặt các nhà quản lý trước những thách thức ở mức độ chưa từng có về yêu cầu nâng cao trình độ quản lý và tốc độ ra quyết định.
3. Những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam
Đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, do đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh đến Việt Nam, cả tích cực cũng như bất lợi.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần này với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, xã hội thông tin, kinh tế tri thức và sự biến chuyển trong các chuỗi giá trị toàn cầu đang tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới. Do điều kiện chiến tranh và hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam đã không có cơ hội để tiếp cận và bắt nhịp ngay từ đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Vì vậy, việc thế giới mới khởi phát cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội rất quý giá mà Việt Nam không có được trong suốt 30 năm qua để nhanh chóng đón bắt, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các thành tựu khoa học-công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn. Đặc biệt, trong trung hạn và dài hạn, số lao động phổ thông ở nước ta sẽ chịu tác động mạnh mẽ của quá trình tự động hóa đang tăng tốc ở các nước phát triển. Nhóm ngành công nghiệp chế tạo sẽ phải chịu tác động mạnh nhất bởi những đột phá về công nghệ đang làm đảo ngược dòng thương mại theo hướng bất lợi cho các nước như Việt Nam do lợi thế lao động giá rẻ giảm mạnh.
Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên toàn cầu, công nhân trong các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang bị kẹt ở giữa một bên là nhân công rẻ hơn từ các nước Campuchia, Bangladesh, Myanmar… và bên kia là người máy đang được ứng dụng ngày một rộng rãi ở các nước phát triển và cả ở Trung Quốc, dẫn đến sự chuyển dịch sản xuất trong phân khúc có giá trị cao hơn trở lại các nước phát triển và Trung Quốc để gần hơn với thị trường tiêu thụ lớn cũng như các trung tâm nghiên cứu, phát triển và các trung tâm cung cấp nguyên vật liệu, phụ kiện.
Hình 3. Cơ cấu “dân số vàng” của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2020
Báo cáo mới nhất của Tổ chức Lao động Quốc tế công bố tháng 7/2016 cho thấy Việt Nam có đến 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép có nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Tỷ lệ rất lớn này sẽ chuyển thành con số thiệt hại tuyệt đối rất lớn vì dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc làm cho nhiều lao động (khoảng gần 2,3 triệu người, trong đó khoảng 78% là lao động nữ làm việc trong ngành dệt may).
“Tiềm năng phát triển của Việt Nam hiện nay còn rất lớn, chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, song thách thức đặt ra với nước ta là làm sao tranh thủ phát huy tối đa và hiệu quả các tác động tích cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngược lại, nếu không có chiến lược phù hợp thông qua đổi mới giáo dục, đào tạo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học-công nghệ thì sức ép đối với phát triển của Việt Nam còn lớn hơn nhiều, khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển sẽ ngày càng tăng”.
Bên cạnh những lợi ích và cơ hội to lớn, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang đặt ra những thách thức gay gắt, đặc biệt là thách thức an ninh phi truyền thống. Sự ra đời của thuật ngữ “an ninh phi truyền thống” phản ánh sự thay đổi nhận thức của con người về an ninh và việc mở rộng nội hàm khái niệm an ninh quốc gia. Nếu an ninh truyền thống coi an ninh quốc gia là bảo vệ đất nước trước các mối đe dọa hoặc tấn công quân sự cả từ bên ngoài và bên trong, thì an ninh phi truyền thống – ngoài việc bảo vệ chủ quyền quốc gia – còn bao gồm cả việc bảo vệ con người (cá nhân) và cộng đồng trước những mối đe dọa và nhân tố mang tính xuyên quốc gia, phi chính trị, phi quân sự.
Hiện nay, bên cạnh những thách thức an ninh truyền thống, đất nước ta đang phải đối mặt với những nguy cơ an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh thông tin, an ninh mạng, an ninh kinh tế, an ninh nguồn nước, năng lượng, lương thực, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và kịp thời đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp ứng phó có hiệu quả với các nguy cơ an ninh phi truyền thống. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định sự cần thiết của việc “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”.
4. Bản chất của Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 trên quan điểm quản lý nhà nước là gì?
Hiện có hai luồng ý kiến đánh giá về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Luồng ý kiến bi quan cho rằng thực tế chưa có cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển một số công nghệ mới gần đây chỉ là sự tiếp nối và kéo dài cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Luồng ý kiến lạc quan cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bắt đầu và sẽ tác động mạnh mẽ đến thế giới, nâng cao hiệu quả và cải thiện đáng kể năng suất nhưng cũng sẽ có tác động về xã hội.
Trên quan điểm quản lý nhà nước: Tùy thuộc vào đặc điểm của công nghệ mới ra; nếu công nghệ mới ra chỉ có mỗi yếu tố mới về nghiệp vụ hay hình dáng mà tất cả những cái đó về tổng thể chưa có gì thay đổi mạnh mẽ đối với trải nghiệm người sử dụng thì đây chỉ là yếu tố nối tiếp cho cuộc cái mạng công nghệ cũ nói chung và cách mạng công nghiệp lần thứ 3 nói riêng. Nếu công nghệ mới đó, dù nó phục vụ cho bất kỳ nghiệp vụ nào, nhưng lại có tác động và thay đổi mạnh mẽ đến trải nghiệm người sử dụng và được chấp nhận thì đó mới là cách mạng công nghệ mới, hay là cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trên.
5. Một số định hướng chiến lược phát triển hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam cần phải bảo đảm một hệ thống cơ sở hạ tầng băng thông rộng, giá rẻ và mọi người dân đều phải có thiết bị truy nhập mạng
a) Về cơ sở hạ tầng: Các nhà mạng di động của Việt Nam cần triển khai nhanh chóng mạng thông tin di động 4G LTE trên diện rộng. Đây là điều kiện tiên quyết vì cơ sở hạ tầng băng thông rộng sẽ là nền tảng cho nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Hình 4. Mạng 4G LTE là một trong các cơ sở hạ tầng thiết yếu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư
b) Về thiết bị truy cập của người dân: Việt Nam hiện nay đã có 50% số dân truy nhập Internet – chỉ số này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Phần còn lại chưa có truy nhập Internet chủ yếu là không có thiết bị đầu cuối. Trong những năm trước kia máy tính, laptop và điện thoại thông minh vẫn là mặt hàng xa xỉ có giá thành cao chưa phù hợp với người dân có thu nhập thấp. Hiện nay cơ hội đã đến với những người dân này nhờ thiết bị smartphone giá rẻ, dễ sử dụng chứ không đòi hỏi người dùng phải biết về tin học. Do đó, việc các doanh nghiệp điện tử, CNTT của Việt Nam như VNPT Technolgy, Viettel… tập trung đầu tư và sản xuất smartphone với giá thành thấp là cơ hội để Việt Nam xoá bỏ khoảng cách số với các nước phát triển.
c) Vấn đề truy nhập giá rẻ: Tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông sẽ tạo động lực để cạnh tranh hơn nữa và do đó tiếp tục giảm giá cước dịch vụ viễn thông để nâng cao khả năng truy cập của người dân.
Thứ hai, Việt Nam cần có một hệ thống trung tâm dữ liệu (data centers) và điện toán đám mây để triển khai nhanh và toàn diện mô hình thuê dịch vụ CNTT:
Các hệ thống trung tâm dữ liệu (data centers) và điện toán đám mây phát triển đã làm thay đổi toàn bộ mô hình quản lý và kinh doanh CNTT, theo đó các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp không cần thiết phải xây dựng hệ thống CNTT riêng biệt của mình nữa mà thông qua việc thuê ngoài dịch vụ của các doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ và giải pháp CNTT và đặc biệt là giải quyết được bài toán kết nối liên thông và chia sẻ dữ liệu. Thách thức hiện nay là nhiều doanh nghiệp còn thuê dịch vụ CNTT trực tiếp từ nhà cung cấp nước ngoài nước ngoài với giá cả cạnh tranh, mức độ ổn định cao. Điều này tạo ra áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và giải pháp trong nước trong việc tạo các các sản phẩm có tính cạnh tranh và dịch vụ hậu mãi.
Thứ ba, Việt Nam cần đi tắt đón đầu để đón nhận xu hướng Internet Vạn vật (Internet of Thing – IoT):
Hình 5. IoT là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy cách mạng công nghiệp lần thứ tư
IoT không chỉ là công nghệ “cảm biến”, mà là một hệ thống các thiết bị được “kết nối” với nhau để hỗ trợ những chiếc xe “tự lái”, điện thoại smartphone sẽ phục vụ như một trợ lý “cá nhân” cũng như hỗ trợ đa dạng các ứng dụng trong “nhà” để tạo ra cuộc sống thoải mái, tiện lợi. Trí tuệ nhân tạo sẽ được liên kết các hệ thống với nhau và công ty cung cấp các “dịch vụ IoT” theo “chiều dọc” (dịch vụ xuyên biên giới theo từng ứng dụng) và hoạt động trên toàn cầu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Vấn đề tiêu chuẩn và kết nối liên thông là vấn đề sống còn của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vì đây là cuộc cách mạng dựa trên nền kinh tế số, thương mại điện tử và sự kết nối liên mạng. Tuy nhiên hiện nay vấn đề được đặt ra là kết nối để chia sẻ dữ liệu giữa khu vực nhà nước với khu vực tư nhân hay chia sẻ thông tin cá nhân trên mạng.
Hình 6. Bảo vệ dữ liệu chính là bảo vệ chủ quyền số quốc gia
Điều này gây ra nhiều thách thức vì lộ lọt thông tin, đặc biệt là hành vi người dùng có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau bao gồm cả mục đích xấu. Vậy tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cần phải bảo đảm chủ quyền số của quốc gia đó là việc bảo vệ dữ liệu của quốc gia và ngăn chặn việc phá hoại cơ sở hạ tầng số của quốc gia. Thách thức ở Việt Nam đó là sự nhận thức của xã hội và người dân chưa cao trong vấn đề bảo vệ dữ liệu.
Cạnh tranh giúp cơ quan quản lý nhà nước có tầm nhìn xa hơn làm cho năng lực quản lý nhà nước tốt hơn. Nếu xét trên quan điểm cung, cầu thì: Từ phía cung thì doanh nghiệp thị phần khống chế, doanh nghiệp càng lớn giá càng rẻ; Từ phía cầu thì nhu cầu tạo dịch vụ: Nếu doanh nghiệp lớn cạnh tranh với doanh nghiệp nhỏ, chỉ có lợi thế về giá rẻ, mà không có lợi thế về dịch vụ bám theo nhu cầu khách hàng. Đây là thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp như Google, Facebook, Amazon… bám vào nhu cầu của khách hàng để phát triển và từ đó có được những thành công lớn. Do đó các chính sách thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo là hết sức cần thiết nhằm tạo ra thị trường các ứng dụng CNTT, trên smartphone, IoT, M2M…
Thứ tư phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác bảo đảm an ninh, an toàn mạng thông tin quốc gia. Đây là quan điểm, tư tưởng cơ bản, xuyên suốt, là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia nói chung, bảo đảm an ninh, an toàn mạng thông tin quốc gia nói riêng.
Hình 7. Luật An toàn Thông tin Mạng đã được Quốc hội thông qua
Để đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam với thế giới, bên cạnh việc khai thác tiềm lực của công nghệ thông tin, viễn thông, Internet, cần xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược tổng thể, toàn diện, phát triển công nghệ về bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia Việt Nam.
Thứ năm, phải có chính sách phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học về CNTT nói chung và lĩnh vực an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng nói riêng.
Trên cơ sở đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có thể thấy rằng với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông chi phí thấp ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất đang chuyển dịch dần từ các nước có nhiều lao động phổ thông và tài nguyên sang những nước có nhiều trung tâm nghiên cứu, phát triển, nhiều lao động có kỹ năng, chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo – là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông – là những yếu tố đầu vào luôn có giới hạn.
Do đó ưu thế về nguồn lao động kỹ năng thấp và giá rẻ của Việt Nam sẽ mất dần, nên chúng ta cần ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông; xây dựng chương trình khung đào tạo và giáo trình chuẩn quốc gia về CNTT cho mọi cấp học.
Chính phủ tạo điều kiện cho các kỹ sư CNTT ưu tú được nghiên cứu và đi học ở nước ngoài để học hỏi công nghệ mới và đồng thời có kiến thức để khi về nước có thể ứng dụng được cho xã hội, phát triển nguồn nhân lực ngang tầm quốc tế và có sự sáng tạo.
Thứ sáu, Chính phủ và các tổ chức cần tổ chức các sự kiện sáng tạo về CNTT như cuộc thi khởi nghiệp công nghệ, hay tổ chức diễn đàn CNTT để thăm dò ý kiến, kiến thức và giải pháp của các bạn trẻ, đồng thời cũng trao giải thưởng cho các nhóm có ý tưởng xuất sắc và có khả năng thực hiện được để từ đó tiếp tục có những giải pháp thương mại hoá.
Hình 8. Các sự kiện sáng tạo về CNTT luôn thúc đẩy Việt Nam tham gia thành công vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Có thể thấy rằng cái nôi sáng tạo không phải ở các viện nghiên cứu hay trường đại học mà từ các doanh nghiệp đặc biệt từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự linh hoạt và năng động cao.
Thứ bảy, sử dụng đồng bộ các giải pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật thuận lợi cho phát CNTT phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Hình 9. Chính phủ quyết tâm tham gia thành công vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Tăng cường các giải pháp phòng ngừa, đối phó hiệu quả với các nguy cơ đe dọa từ không gian mạng, góp phần bảo vệ chủ quyền, lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia trên không gian mạng. Nâng cao nhận thức, kiến thức về CNTT bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân khi tham gia vào môi trường mạng để xây dựng môi trường thông tin, môi trường mạng lành mạnh.
Thứ tám, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế về CNTT, an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia; tiếp thu những thành tựu khoa học-công nghệ tiên tiến của thế giới, tiến tới làm chủ công nghệ và phát triển các sản phẩm CNTT góp phần xây dựng không gian mạng lành mạnh.
6. Kết luận:
Năm 2016 đáng nhớ khi Chính phủ chọn là năm Quốc gia khởi nghiệp với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi phát triển cho các doanh nghiệp dựa trên mô hình kinh doanh mới khai thác công nghệ tiên tiến và tài sản trí tuệ. Quyết định số 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 21/01/2016 phê duyệt Chương trình phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng đến năm 2020 và mới đây ngày 04/05/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cho thấy Chính phủ hết sức quan tâm và tận dụng mọi cơ hội tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin – truyền thông của đất nước.
PGS. TS. Trần Minh Tuấn
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông